Lịch sử Hà Nội giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan về thủ đô ngàn năm văn hiến của Việt Nam. Hãy cùng khám phá lịch sử Hà Nội qua các thời kỳ
Thủ đô Hà Nội có lịch sử nhiều hơn tất cả các thủ đô của các nước Đông Nam Á như Viêng Chăn (Lào), Phnompenh (Campuchia), Bangkok (Thái Lan), Kuala Lumpur (Malaysia), Giacarta (Indonesia), v.v…
Thủ đô Hà Nội ngày nay xuất hiện trong lịch sử dân tộc Việt Nam chính thức vào năm 1010 (mùa thu tháng 7 năm Canh Tuất) với tên gọi Thăng Long. Tuy nhiên trước đó Hà Nội cũng là vùng đất có nhiều dấu ấn trong lịch sử
Thời kỳ tiền Thăng Long
Những di chỉ khảo cổ tại Cổ Loa cho thấy con người đã xuất hiện ở khu vực Hà Nội từ cách đây 2 vạn năm, giai đoạn của nền văn hóa Sơn Vi. Nhưng đến thời kỳ băng tan, biển tiến sâu vào đất liền, các cư dân của thời đại đồ đá mới bị đẩy lùi lên vùng núi.
Phải tới khoảng 4 hoặc 5 ngàn năm trước Công Nguyên, con người mới quay lại sinh sống ở nơi đây. Các hiện vật khảo cổ giai đoạn tiếp theo, từ đầu thời đại đồ đồng đến đầu thời đại đồ sắt, minh chứng cho sự hiện diện của Hà Nội ở cả bốn thời đại văn hóa:
- Phùng Nguyên: là một nền văn hóa tiền sử thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng, cuối thời đại đồ đá mới, tồn tại từ cuối thiên niên kỷ III TCN, đầu thiên niên II TCN và kết thúc vào khoảng nửa đầu thiên niên kỷ II TCN
- Đồng Đậu: là nền văn hóa thuộc thời kỳ đồ đồng ở Việt Nam cách ngày nay khoảng 3.000 năm
- Gò Mun: ước chừng trong khoảng thời gian từ năm 1.000 – năm 700 TCN, thuộc cuối thời kỳ đồ đồng
- Đông Sơn: là một nền văn hóa cổ đã xuất hiện vào khoảng năm 800 trước công nguyên, từng tồn tại ở một số tỉnh miền Bắc Việt Nam và Bắc Trung bộ Việt Nam
Thế kỷ III trước Công Nguyên, trong cuộc chiến với quân Tần từ phương Bắc, Thục Phán quyết định đóng đô ở Cổ Loa, nay là huyện Đông Anh, cách trung tâm Hà Nội khoảng 15 km. Sự xuất hiện của thành Cổ Loa ghi dấu Hà Nội lần đầu tiên trở thành một đô thị trung tâm về chính trị và xã hội.
Trong suốt hơn một nghìn năm đô hộ phương Bắc khu vực Hà Nội ngày nay được đổi tên vài lần nhưng đều không mang nhiều dấu ấn trong vòng quay lịch sử. Chỉ khi Lý Thái Tổ rời đô, đó là lúc lúc khu vực Hà Nội mới gắn liền với lịch sử Việt Nam
Thời kỳ Thăng Long
Đây là một dấu mốc quan trọng gắn liền lịch sử Hà Nội với lịch sử Việt Nam được bắt đầu từ thời Lý tới tận ngày nay.
Nhà Lý
Người sáng lập Thăng Long là Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) cũng là người khai sinh triều đại Lý huy hoàng trong lịch sử Việt Nam. Ông là một nhà chính trị, một nhà quân sự, một nhà văn hoá lớn.
Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ nối rõ mục đích dời đô là:
Đóng nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế lâu dài cho con cháu đời sau. Nơi có đủ điều kiện để thực hiện mục đích đổ chính là Thăng Long: “Ở trung tâm bờ cõi đất nước, được cái thế rồng cuộn, hổ ngồi vị trí ở giữa bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc tiện hình thế núi sông sau trước. Ở đó địa thế rộng mà bằng phẳng vùng đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ vì ngập lụt, muôn vật rất phong phú tốt tươi. Xem khắp nước Việt ta, chỗ ấy là nơi hơn cả, thật là chỗ hội họp của bốn phương, là nơi đô thành bậc nhất của đế vương muôn đời”.
Tại Kinh thành Thăng Long, nhà Lý cho xây dựng nhiều lâu đài, cung điện, đền chùa và thành luỹ bảo vệ. Từ đố, Thăng Long với hình ảnh Rồng bay lên đẹp đẽ và tượng trưng cho khí thế vươn lên của dân tộc, mở đầu một giai đoạn phát triển lớn của đất nước. Cũng vì ý nghĩa đó, Lý Thái Tổ đặt quốc hiệu là Đại Việt.
Nhìn vào lịch sử thăng trầm của đất nước càng thấy được vị thế của đất Thăng Long so với các vùng khác trong nước là không đâu bằng. Triều đại Lý mở đầu, định đô ở Thăng Long đã chiến thắng hoàn toàn quân xâm lược Tống (xâm lược nước ta lần thứ hai). Tháng 3-1077 Lý Thường Kiệt người con sinh ra ở Thăng Long, người anh hùng dân tộc đã biết kết hợp tài tình giữa quân sự, chính trị và ngoại giao, lập nên chiến thắng có giá trị đè bẹp mộng tưởng xâm lược nước ta của vua quan nhà Tống. Từ sau chiến thắng đố, suốt 200 năm sau, nhà Tống không dám đụng chạm đến nước ta.
Nhà Trần
Nhà Lý suy vong. Triều Trần thành lập. Vua Trần Thái lồng lên ngôi năm 1226, vẫn đống đô ở Thăng Long. Kinh thành Thăng Long được mở rộng hơn trước, khu vực cư trú của nhân dân được chia thành 61 phường.
Triều đại nhà Trần đã lập nên chiến công hiển hách: ba lần chiến thắng những đạo quân xâm lược khét tiếng của đế quốc Nguyên Mông tràn sang nước ta trong vòng 30 năm (1258 – 1288). Tại kinh thành Thăng Long, đầu năm 1285 khi giặc Nguyên đang ào ào áp sát biên giới nước ta, vua Trần Nhân Tông triệu tập hội nghị Diên Hồng.
Nhà Trần suy vong. Năm 1400 Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, lập ra triều Hồ và cho xây dựng kinh đô mới ở vùng An Tồn (Vĩnh Lộc, Thanh Hoá) gọi là Tây Đô (nhân dân quen gọi là thành nhà Hồ). Thời kỳ này Thăng Long gọi là Đông Đô.
Lợi dụng sự suy yếu của các vương triều nước ta, cuối năm 1406, nhà Minh huy động tới 20 vạn quân gồm bộ binh và kỵ binh vượt biên giới phía bắc vào xâm lược nước ta. Nhà Hồ chống đỡ với quân xâm lược không được bao lâu thì cha con Hồ Quý Ly bị giặc bắt đưa về giết ở Trung Quốc. Năm 1407 giặc Minh chiếm Kinh thành Thăng Long, đổi tên là Đông Quan.
Nhà Lê
Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thanh Hoá), sau 10 năm chiến đấu đã đánh đuổi toàn bộ quân Minh ra khỏi bờ cõi, giải phóng kinh thành Đông Quan và sau đổi tên là Đông Kinh.
Tới triều Mạc, kinh thành trở lại tên gọi Thăng Long (1527).
Thời Lê – Trịnh (1533 – 1786) Thăng Long gồm hai huyện Thọ Xương và Quảng Đức thuộc phủ Phụng Thiên.
Nhà Nguyễn
Năm 1802 Gia Long lập triều Nguyễn, đổng đô ở Phú Xuyên (Huế). Thăng Long vẫn là thủ phủ của 11 trấn Bắc Thành, nhưng chữ Long là Rồng được đổi thành chữ Long là Thịnh.
Năm 1858 triều đình Nguyễn bán nước, dâng Hà Nội cho Pháp. Thủ đô trở thành một thành phố thuộc Pháp suốt hơn nửa thế kỷ và vẫn mang tên là Hà Nội.
Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2- 9-1945 tại thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, công bố với thế giới khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Hà Nội trở lại vị trí thủ đô của một nước độc lập.
Thực dân Pháp tiếp tục dã tâm xâm lược nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân ta lại trường kỳ kháng chiến chống Pháp suốt 9 năm (1946 – 1954) và kết thúc thắng lợi bàng chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng ngày 7- 5-1954.
Năm 1954
Hội nghị Genève (Thuỵ Sĩ) công nhận chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam dân chủ cộng hoà từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc. Ngày 10-10-1954 thủ đô Hà Nội được giải phóng khỏi ách thực dân Pháp.
Trước khi rút khỏi Việt Nam, Pháp đã “bàn giao” miền Nam cho đế quốc Mỹ. Thế là nhân dân ta lại phải một lần nữa kháng chiến chống Mỹ hơn 20 năm và kết thúc bằng chiến thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử vào ngày 30- 4- 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu giang sơn về một mối. Đất nước được thống nhất, Quốc hội khóa VI họp ngày 25-4-1976 đã chọn Hà Nội làm thủ đô của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Lịch sử Hà Nội thời kỳ đổi mới
Từ ngày ấy đến nay, Hà Nội đã trải qua nhiều tháng năm phấn đấu gian khổ để đi lên cùng cả nước.
Từ hai thập kỷ gần đây, Hà Nội không những mở rộng về bốn hướng mà đã vươn lên tầm cao bằng những công trình xây dựng ngày càng đồ sộ. Chiều dài cắc đường phố trong nội thành cộng lại tới gần 400 km. Hà Nội ngày xưa trong tâm tưởng mọi người là 36 phố phường thì ngày nay con số đđ đã gấp lên nhiều lần, tới gần 500 phó phường (con số này sẽ còn tăng lên nữa).
Số dân Hà Nội hiện nay nếu kể cả ngoại thành là hơn 2 triệu người, ơ thời điểm này, người Hà Nội đang cùng với nhân dân cả nước chuẩn bị hành trang để kỷ niệm 1000 năm thành lập Hà Nội – nghìn năm Thăng Long (1010 – 2010).
Tên gọi Hà Nội qua các thời
- Long Đỗ: Truyền thuyết kể rằng lúc Cao Biền nhà Đường, vào năm 866 đắp Thành Đại La, thấy thần nhân hiện lên tự xưng là Thần Long Đỗ. Do đó trong sử sách thường gọi Thăng Long là đất Long Đỗ.
- Tống Bình: là tên trụ sở của bọn đô hộ phương Bắc thời Tùy (581 – 618), Đường (618 – 907). Trước đây, trị sở của chúng là ở vùng Long Biên (Bắc Ninh ngày nay). Tới đời Tùy chúng mới chuyển đến Tống Bình.
- Đại La: Đại La hay Đại La Thành, nguyên là tên vòng thành ngoài cùng bao bọc lấy Kinh đô.
- Thăng Long.: Thăng Long, Kinh đô mới của Lý Công Uẩn được ghi trong Đại Việt sử ký, với chữ “Thăng” ở bộ Nhật, và do đó bao hàm hai nghĩa: “Rồng bay lên”, và “Rồng (bay) trong ánh Mặt trời lên cao”.
- Đông Đô: Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Mùa Hạ tháng 4 năm Đinh Sửu (1397) lấy Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương) coi phủ đô hộ là Đông Đô” (Toàn thư Sđd – tr.192). Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sứ thần nhà Nguyễn chú thích: “Đông Đô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hóa là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô”
- Đông Quan: Đây là tên gọi Thăng Long do quan quân nhà Minh đặt ra với hàm nghĩa kỳ thị Kinh đô của nước ta, chỉ được ví là “cửa quan phía Đông” của Nhà nước phong kiến Trung Hoa. Sử cũ cho biết năm 1408, quân Minh đánh bại cha con Hồ Quý Ly đóng đô ở Thành Đông Đô, đổi tên thành Đông Quan.
- Đông Kinh: Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết sự ra đời của cái tên này như sau: “Mùa Hạ, tháng 4 năm Đinh Mùi (1427) Vua (tức Lê Lợi) từ điện tranh ở Bồ Đề, vào đóng ở Thành Đông Kinh, đại xá đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Đại Việt đóng đô ở Đông Kinh. Ngày 15 Vua lên ngôi ở Đông Kinh, tức là Thành Thăng Long. Vì Thanh Hóa có Tây Đô, cho nên gọi Thành Thăng Long là Đông Kinh”
- Bắc Thành: Đời Tây Sơn (Nguyễn Huệ – Quang Trung 1787 – 1802), vì Kinh đô đóng ở Phú Xuân (tức Huế) nên gọi Thăng Long là Bắc Thành
Di tích lịch sử hà nội
Trên đây là lịch sử hà nội nghìn năm văn hiến mà chúng ta đã tìm hiểu. Nếu bạn là một người yêu thích và mong muốn khám phá lịch sử, văn hóa Hà Nội hãy theo dõi các bài viết của chúng tôi
Biên tập bởi: Trịnh Văn Tuyển